Vui Lâm và Trấn Thủ


Trong một lần đi lễ sáng, bước ra khỏi nhà thờ, hắn gặp Vui Lâm và Trấn Thủ đang trò chuyện với nhau, rất tâm đắc, cứ như chúng là bạn chí cốt. Với người khác có thể đó là chuyện bình thường, nhưng với hắn thì không.


Vì là bạn thân nên hắn biết rõ tính cách hai thằng này, thích gây sự là thói quen của chúng mà ưa đấm đá cũng là thói quen của chúng, thế mà hôm ấy chúng cùng nhau đi lễ nhà thờ, rồi trò chuyện đàng hoàng nhỏ nhẹ như hai người bạn tâm giao. 


Hai thằng này có tính cách trái ngược nhau. Trong đám đông, Vui Lâm chỉ thích làm đại ca còn Trấn Thủ thì không thích làm đại ca nhưng lại không muốn dưới trướng bất cứ đại ca nào.


Hắn là bạn của cả hai, nhưng theo hai hướng hoàn toàn khác nhau. Hắn quen Trấn Thủ vì Trấn Thủ là bạn học cùng lớp, còn hắn quen Vui Lâm là qua những lần đi bắt dế. 


Hơn nữa, Vui Lâm là người Nghi Lộc, sống ở hàng tư, gần dưới Xuân Phong, phía trái chợ Bình Giã, trong khi Trấn Thủ là người Đông Yên, nhà ở hàng nhất, gần Phi Lộc, phía phải chợ Bình Giã, tức nhà của chúng rất xa nhau. Chỉ riêng việc chúng biết nhau đã là câu hỏi lớn, chứ chưa bàn đến chuyện quen thân.


Trẻ con Bình Giã thời ấy chỉ quanh quẩn trong xóm, nên cơ hội gặp trẻ khác xóm rất ít, trừ khi đi học, mà nếu đi học thì Vui Lâm phải học cùng trường với hắn vì cùng ở Nghi Lộc, trong khi hắn chưa bao giờ thấy Vui Lâm ở trường cả.


Bên cạnh tính cách thì vóc dáng của hai thằng này cũng rất khác biệt.


Vui Lâm có nước da đen trũi, mắt sâu và sáng quắc, tóc rậm dày, người rắn chắc, cao to, vượt xa đám trẻ cùng tuổi. 


Trong giao tiếp thì Vui Lâm ít nói, hay cười và cười sang sảng, tạo ấn tượng với mọi người khi có mặt. Đặc biệt Vui Lâm là một đứa trẻ có tố chất của một đại ca miệt vườn, sẵn sàng đấm đá, bảo vệ mình và bảo vệ bạn bè.


Làng Bình Giã thời ấy, đám trẻ con thường phải phụ cha mẹ công việc đồng áng, chăn trâu chăn bò, cơ hội gặp gỡ và vui chơi phần lớn diễn ra ở những buổi sinh hoạt thiếu nhi thánh thể, hay những buổi chăn thả gia súc... 


Trường học cũng là một nơi vui chơi kết bạn, nhưng trẻ con Bình Giã lúc đó thường chỉ học hết cấp một, đến cấp hai là rơi rụng hơn ba phần, còn đến cấp ba thì phải đi học ngoài Ngãi Giao, nên số còn lại chỉ còn trong mười ngón tay.


Có một ngoại lệ là đám trẻ con sinh sống quanh chợ Bình Giã (thường bị mỉa mai là "dân khu chợ"). Nhà quanh chợ thuờng là buôn bán, nên trẻ con chẳng  phải ra đồng, thời giờ vui chơi nhiều hơn, và cũng vì thừa thì giờ nên có nhiều thú vui hơn lũ trẻ vùng khác. Một trong những thú vui ấy là đi bắt dế, dĩ nhiên là lũ trẻ vùng khác cũng có thú vui này.


Vào mùa bắt dế, bọn hắn thường ra đồng Nghi Lộc theo cổng phía sau nhà thờ xứ Vinh Châu, nhưng đi phía này thuờng chỉ quanh quẩn gần làng, cho đến nghĩa trang Nghi Lộc là hết. 


Thỉnh thoảng bọn hắn có đi xa hơn sang phía ngang, tới vườn ông Minh. Lý do là ông Minh là người bà con của thằng Phương, và vào đó khá thoải mái như ở nhà thằng Phương vậy. Có điều hơi lạ là thằng Phương phá làng phá xóm, coi trời bằng vung, không kiêng nể ai, nhưng đụng đến nhà ông Minh thì thằng Phương bỗng lành hẳn ra, chẳng hiểu vì sao.


Một hướng khác là đi bắt đế trên đồi Gia Hòa. Họ đạo Gia Hòa đối diện với chợ Bình Giã tức, cách Nghi Lộc chỉ một con đường, thời ấy gọi là đường cái. Đồi Gia Hòa gần làng, nhưng lúc ấy vẫn có vẻ hoang vu, và bọn hắn không thích lắm, một phần cũng vì dân Gia Hòa với Nghi Lộc lúc ấy không ưa nhau, nên lảng vảng bên ấy cũng hơi teo.


Một ngả bắt dế khác nữa của bọn hắn là đồng Nghi Lộc phía cổng ông Vinh, gần bên Xuân Phong. Phía này phần lớn là vườn và rẫy, kéo dài đến tận hai địa danh nổi tiếng với người Nghi Lộc là Khe Sâu và Rú Cao. 


Hắn vẫn nhớ là phải đi rất xa, đổi lại, hai địa danh này dế nhiều và dế to. Dế chọi mà có con to như ngón tay cái, tựa dế cơm.


Khi bắt dế trở về, bọn hắn thường ghé mấy nhà bên đường uống nước, nghỉ ngơi và đem dế vừa bắt được ra chọi, chọi với dế của đám trẻ con Nghi Lộc sinh sống bên cạnh đường bọn hắn trở về. 


Nơi bọn hắn ghé thuờng xuyên nhất là nhà Hùng Đồng, ngay phía sau nhà thờ họ Nghi Lộc.


Hùng Đồng là con trai một, là người thân thiện vui vẻ, nhà rộng rãi, sạch sẽ, thoải mái, và theo hắn biết thì nhà Hùng Đồng cũng là nơi bọn trẻ Nghi Lộc thường tập trung vui chơi vào thời ấy.


Trong một lần bọn hắn đi bắt dế ở Khe Sâu, thằng Phương bắt được con dế lửa mà trong ổ có đến gần chục con dế bà (dế cái). 


Lúc ấy bọn hẳn chỉ là một lũ trẻ, chưa dậy thì, chưa biết "Điều Răn Thứ Sáu" tròn méo ngang dọc thế nào, nhưng cũng phấn khích vì thường dế chọi chỉ ở một mình, còn khi có dế bà thì cũng chỉ vài con, và lúc ấy dế chọi thường gáy gọi tình, với âm thanh "chích, chích, chích...", nghe rất ủy mị chắng có chút hùng hồn của một chiến binh tẹo nào. 


Và bọn hắn gọi những âm thanh đó là "nhắt đực". Dế chọi mà bắt được khi đang nhắt đực thường rất yếu, chẳng đấm đá gì được, nên nghe tiếng dế nhắt đực thì bọn hắn không hứng thú lắm vì xem như vớ phải con dế vô dụng.


Thế mà thằng Phương bắt được con dế lửa với gần chục con dế bà mà không hề có tiếng nhắt đực. Hơn nữa bắt dế bà cũng là một công việc cần thiết vì dế bà thường được bắt để ngắt đầu làm "đầu ráy" - cắm đầu dế bà vào cây tăm, rồi ngoáy trước đầu lũ dế chọi để chọc tức, làm chúng tăng tính hiếu chiến.


Cũng như mọi khi, tại nhà Hùng Đồng, bọn hắn đem dế vừa bắt được ra chọi, và như những lần trước, thua lăn lóc. Nhưng đến khi thằng Phương đem con dế lửa đó ra, không ngờ đánh bại tất cả. 


Con dế lửa ấy kíck thước tầm trung bình, chỉ có thân hơi dài hơn bình thường, đặc biệt là không thèm gáy khi vào trận. Khi chọi con dế lửa chỉ có nghiến càng chứ không húc, và hai càng chỉ giương ra chút ít, không lẫm liệt và hào hùng chút nào, nhưng lại rất dẻo dai và lỳ lợm. Nhiều lúc bị hất ngửa, vẫn quay lại chọi tiếp. Có vẻ hàm răng nó rất khỏe, nên nghiến một lúc là đối phương quay đầu bỏ chạy


Thành Thống, đối diện nhà Hùng Đồng, nổi tiếng mê chọi dế, trong nhà tiếng dế gáy át cả tiếng gà, dế được nuôi trong hộp gỗ với nền đất sỏi tự nhiên, cỏ nước đàng hoàng, chứ không có thứ quăng dế lăn lóc trong loong sữa như bọn hắn.  


Bình thường thì dế bọn hắn thua dế Thành Thống đều đều, vì lẽ thường bọn trẻ nhà nông phải rành rẽ những thú vui gắn với đồng ruộng như chọi dế. Thế mà lần ấy, con dế lửa thằng Phương đánh bại tất cả, Thành Thống đi đi về về, xách hộp này sang hộp khác, con dế này con dế kia, thua vẫn thua. 


Sau một lúc cay cú, Thành Thống nói : "Để tau kêu Vui Lâm !"


Năm mười phút sau, Thành Thống trở lại với Vui Lâm. Đây là lần đầu hắn gặp Vui Lâm và ấn tượng ngay vì vóc dáng và tướng đi ung dung oai vệ, nhất là đi bên cạnh một thằng lè bè, ì ạch như Thành Thống.


Không nói nhiều, Vui Lâm thả dế xuống hộp chọi, mà bên trong là con dế lửa bất bại của thằng Phương. Đúng là "nhân như vật", con dế than của Vui Lâm đen trũi và to đùng như chủ nhân của nó vậy


Vui Lâm ngoáy đầu ráy khiêu khíck con dế than, thế là nó gáy vang, giương đôi càng bè bè, trông cứ như càng bò cạp, còn về kích thước thì nó gần gấp đôi con dế lửa của thằng Phương. Nhìn hai con dế, chưa chọi đã thấy phần thắng thuộc về ai. 


Thực tế còn tệ hại hơn, chỉ sau vài cái ngoáy đầu ráy của Vui Lâm, con dế than trở nên hung hãn vừa gáy vừa chạy quanh hộp tìm đối thủ. Gặp con dế lửa của thằng Phương, nó xông vào tấn công ngay, tấn công liên tục không ngừng nghỉ, cứ như một con chó dại.


Con dế lửa của thằng Phương chỉ kịp so càng một lần, nhưng cứ như nghiến phải thép hay sao ấy, nó nhả ra quay đầu bỏ chạy. Con dế than vẫn không tha, đuổi chạy quanh hộp, đuổi kịp là cắn xé, đến mức cuối cùng con dế lửa của thằng Phương phải búng ra luôn khỏi hộp chọi.


Thành Thống cười ha hả... 


Thằng Phương nổi nóng, văng tục, định tấn công Thành Thống.


Vui Lâm đưa tay ra ngăn, rồi dằn giọng : "Ê, muốn đập chắc à, mi với tau !"


Thằng Phương thuộc dạng không vừa, nhưng vẫn còn lý trí để biết không nên húc đầu vào quả núi kia, nên chỉ biết nói lại : "Hắn chọc tức tau."


Vui Lâm cũng xuống giọng: "Thì hắn giỡn thôi mà."


Rồi Hùng Đồng từ dưới nhà đi lên, có Hùng Đồng thì mọi thứ đều yên vui. Một lúc sau, đám trẻ quay qua bàn chuyện dế ...


Dế có nhiều loại, nhưng chỉ vài loại liên quan đến thú chọi dế của đám trẻ con. 


Thứ nhất là dế chọi, gồm dế than - màu đen, và dế lửa - màu vàng đỏ. 


Thứ hai là dế cơm, loại này màu xám nhạt và rất to, nhưng mềm oặt, lúc nào cũng như mới lột da, nghe đồn có người bắt về đem chiên ăn. 


Thứ ba là dế tây, tại sao gọi là tây thì hắn chịu, chỉ biết loại dế này có màu nâu nhạt, kích thước chỉ tầm dế chọi, nhưng rất khỏe, và đặc biệt là không bao giờ chọi. Dế tây rất nhiều và bọn hắn đã thử, ngoáy đầu ráy đến mỏi tay, con dế tây chỉ có chạy chứ không bao giờ thể hiện tính hiếu chiến.


Còn nhớ Vui Lâm giải thích về con dế của mình : "Con dế này là dế than lai dế tây và lai dế cơm, nên to và rất khỏe, nếu nó đã hăng máu lên thì không con dế chọi nào có thể là đối thủ." 


Lúc ấy hắn tự hỏi:  "Lai thì lai đôi chứ làm sao lai ba được ta, và làm sao Vui Lâm biết được ?" 


Nhưng đó chỉ là thắc mắc vớ vẩn của một đứa trẻ thôi, "nhà khoa học" Vui Lâm nói thế thì biết thế, cả bọn ngoác mỏ nghe như nghe sấm truyền.


Và từ đó hắn và Vui Lâm trở thành bạn bè. 


Thỉnh thoảng Vui Lâm rủ hắn về nhà, chơi đủ trò trẻ con. Có lần đói bụng mò xuống bếp thấy nồi tôm ông Lâm mới kho, hai thằng chén sạch, cả cơm lẫn tôm, phải nói nồi tôm hôm ấy ngon thật. 


Có lẽ đó là bữa ăn ngon nhất hắn đã ăn cho tới lúc này, nên nhớ mãi, chẳng biết Vui Lâm còn nhớ hay không. 


Nghe đâu, chiều hôm ấy đi làm đồng về, thấy nồi nhưng chẳng thấy tôm, nổi giận, ông Lâm vác gậy rượt thằng Vui chạy khắp xóm.


Sau này cứ có dịp là hắn ra đồng, tham gia tắm ao, bắt cá, đi săn cút, săn thỏ, săn nhím... cùng đám trẻ chăn bò Nghi Lộc, mà đứng đầu lúc ấy là "nguyên soái" Vui Lâm, và vẫn nhớ Vui Lâm là tay sát thú có hạng, mỗi lần đi săn là chắc chắn có thú xách về. 


Hồi ấy nổi tiếng là ao ông Lanh, ao ông Vinh, đầm ông Bảy, Rú Cao, Khe Sâu ... những nơi với biết bao thú vui đồng quê mà hắn may mắn trải qua 


Có dịp chẳng hiểu nguyên do nào, đám chăn bò Nghi Lộc lại đưa bò ra tận Đường Cùng chăn thả. Đường Cùng là địa danh nằm trên trục lộ Bà Rịa-Long Khánh. Muốn đi Đường Cùng phải đi từ đường cái ra Ngãi Giao rồi rẽ phải đi lên hướng Long Khánh một khoảng khá xa nữa. 


Tại sao phải đưa bò lên đấy? Hắn chịu. Chỉ dân Nghi Lộc đi thường xuyên, thỉnh thoảng có đám bò Phi Lộc và Xuân Phong tham gia, nhưng chỉ số ít và chỉ thỉnh thoảng vài hôm chứ không phải hàng ngày.


Rừng nào cọp nấy, trên Đường Cùng lúc ấy cũng có một cọp khác là Hùng Bô. Thế là đám chăn bò Nghi Lộc, thủ lãnh là Vui Lâm, thường xuyên gây gỗ với đám chăn bò Đường Cùng, thủ lãnh là Hùng Bô. 


Hùng Bô là con của Tư Lợi, một cán bộ nằm vùng, sau 75 trở thành thủ lãnh, tác oai tác quái cả một vùng rộng lớn. Có hôm du kích xã Bình Giã bắt giữ vài người Đường Cùng vì xe bò chở gỗ đi qua xã, chẳng biết có phải gỗ lậu hay không. Tư Lợi vào và tát tai du kích ngay tại ủy ban nhân dân xã, rồi ung dung bảo người đánh xe gỗ về. 


Hùng Bô là thủ lãnh đám chăn bò Đường Cùng là nhờ thế, và cũng chẳng hiểu sao lại gọi là Hùng Bô, chứ người thì chỉ to ngang chứ thấp lè tè, tướng tá hèn mọn, so với Vui Lâm thì như trời với vực.


Có hôm hai nhóm đá banh, nổi nóng, chơi xấu triệt hạ chém chặt, không còn đá banh mà chuyển sang đá người... Rồi hai bên thách thức, dàn xếp để thủ lãnh thi thố với nhau. Vui Lâm thì sẵn sàng, còn Hùng Bô thì lưỡng lự, nhưng lại sợ mất mặt đại ca nên cuối cùng cũng tham gia sau vài lần văng tục. 


Hắn biết Vui Lâm chưa hề học võ, nhưng vốn là tạng người thể thao, lại là dân sát thú, nên Vui Lâm thủ thế và đấm đá rất có đường nét, nhất là so với đám trẻ con. Vui Lâm chỉ thủ chứ không tấn công ngay, khi Hùng Bô lao vào (chẳng biết để đấm hay đá), Vui Lâm quất ngay một đá vào mặt. Hùng Bô lăn đùng xuống đất, còn Vui Lâm vẫn đứng thủ chứ không thèm tấn công tiếp.


Đám trẻ con Nghi Lộc reo vang, Hùng Bô nổi nóng đứng dậy rồi lao vào, và Vui Lâm quất thêm một đá vào mặt nữa, và Hùng Bô lại lăn đùng ra đất... đám trẻ con Nghi Lộc càng reo tợn.


Hùng Bô đứng dậy, lảo đảo, định lao vào nữa, nhưng lại sợ ăn thêm cú đá nên lưỡng lự, rồi bỗng quay đầu chạy. 


Lát sau Hùng Bô trở lại với cây súng của Tư Lợi, bắn đùng đùng... đám trẻ cả hai bên chạy loạn xạ tìm chỗ trốn... Nghe đâu du kích Đường Cùng phải mời Tư Lợi ra dắt thằng con về.


Có lẽ từ vụ ấy dân chăn bò Nghi Lộc không còn dẫn bò ra Đường Cùng nữa, hắn đoán thế.


Vui Lâm có một tuổi thơ ngạo nghễ, nhưng khi đến tuổi trưởng thành, Vui Lâm lại trở nên bình thường, không còn nổi bật như xưa.


Có thể tố chất ấy chỉ dành cho trẻ con, mà cũng có thể khi trưởng thành, mọi thứ lo toan cơm áo gạo tiền ập đến, con người ta trở nên phiền não bi quan, cái hồn nhiên khí khái bỗng trở thành dĩ vãng. Dân Bình Giã sau 75 đều nghèo, mà sau 75 thì cả Việt Nam có bao nhiêu người không nghèo nhỉ?


Cái nghèo là kẻ thù của sự hồn nhiên. Khi còn nhỏ ta hồn nhiên vì lúc ấy ta không ý thức được cái nghèo mà cha mẹ ta đang phải đối phó, một khi phát hiện ra cái nghèo thì cái hồn nhiên trong ta sẽ tự tháo lui. 


Điều này thể hiện rõ hơn với một thằng bạn khác mà hắn đã đề cập : Trấn Thủ !


Trấn Thủ là một đứa trẻ lôm côm, náo nhiệt, ồn ào và nổi bật nhất là tính xấc xược, sẵn sàng chọc ghẹo gây gỗ với bất cứ ai, dù là mới gặp mặt hay đã quen thân.


Trấn Thủ là con ông Quế Gáo chứ chẳng phải con ông Thủ nào cả, và ông Quế cũng chẳng phải là con ông Gáo nào. 


Ông Quế Gáo là người thân thiện và nhiệt tình, tham gia nhiều chương trình xây dựng xã Bình Giã thời mới di cư vào Nam, cũng như những sinh hoạt làng xã sau đó, nên được nhiều người biết và kính nể.


Bình Giã có tổ chức một buổi đá banh mời đội nữ Tây Ninh về đá với đội lão tướng, lúc ấy ông Quế Gáo đã rất lớn tuổi, có lẽ đã trên 60 mà vẫn tham gia, làm thủ quân của đội Bình Giã trong trận đó. 


Nam đá với nữ thì chắc chắn có xì xào bàn tán, dù cầu thủ nam đã ở tuổi lão tướng. Mà đá banh thì sao tránh khỏi va chạm, và những lúc như thế thì cầu thủ nam đều bị nghi ngờ là cố tình lợi dụng đụng chạm cầu thủ nữ hòng kiếm chút cảm hứng. Lúc đó khán giả Nghi Lộc còn đùa : "Đá với nữ thì chọn Quế Gáo đá cho lành, vì đâu còn 'làm ăn' gì được."


Nhà Trấn Thủ ở Đông Yên, ở giữa trường cấp một Vinh Hà và trường cấp một Vinh Châu. Những đứa trẻ có nhà như thế có thể chọn học ở đâu cũng được, hoặc học ở nơi này vài lớp rồi sang học nơi kia. Trấn Thủ thuộc thành phần thứ hai, tức trước đó học ở Vinh Hà, sang lớp hai lớp ba mới chuyển lên học ở Vinh Châu, cùng trường với hắn.


Hắn đã học ở cấp một trường Vinh Châu vài năm rồi mới gặp Trấn Thủ. Lần đầu tiên hắn gặp Trấn Thủ là ngày tựu trường, lớp hai hay lớp ba gì đấy. Thấy một thằng nhỏ thó nhem nhuốc, lạ hoắc, hắn cười làm quen. Trấn Thủ chẳng thèm nói gì, thẳng tay giáng cho hẳn một tát, rồi cười ha hả...


Vì mới lên trường Vinh Châu, nên Trấn Thủ không biết lúc ấy hắn đã quen thân với đám trẻ con Phi Lộc rồi, mà nổi bật trong nhóm này là Quyền Bút, Tựu Nhắm, Tạo Tiến... trong đó Tạo Tiến thuộc hạng bậm trợn và bổ báng nhất, và luôn bảo vệ hắn trước bất cứ mối đe dọa nào.


Thế là cũng tương tự Trấn Thủ, Tạo Tiến lao vào đấm đá Trấn Thủ tới tấp mà chẳng thèm nói câu nào. Tạo Tiến nhỏ con, nhưng người rắn chắc, đặc biệt là rất khỏe và đặc biệt hơn là rất thích đấm đá, cứ trông có dịp là thực hiện ngay. 


Tạo Tiến sau này có rất nhiều tai tiếng... đến mức người Bình Giã có lúc hay nói : "Trong làng này có một người mà ai cũng ghét; đó là Tạo Tiến." 


Vì quá ghét, nên mọi người không thấy một đặc điểm nổi bật của Tạo Tiến mà hắn biết rất rõ từ thời còn đi học, rất hung dữ nhưng Tạo Tiến lại có nụ cười rất hiền.


Khi trưởng thành, hắn và Tạo Tiến không còn gặp nhau và dĩ nhiên là chẳng còn thân thiết. Trong một lần ở quán bida bà Khâm, Tạo Tiến vào quậy phá, mọi người xa lánh, cứ như trốn tránh một thằng hủi. Hắn cũng định lẩn đi, nhưng lưỡng lự, có lẽ vì tình bạn năm xưa trở về. 


Khi đối mặt, Tạo Tiến có vẻ hơi bất ngờ, rồi nhoẻn miệng cười, cái cười rất tươi của ngày xưa... 


Thỉnh thoảng nghĩ tới cũng bùi ngùi vì thời học cấp một thì Tạo Tiến là người bạn thân nhất của hắn.


Cả hai thằng, Tạo Tiến và Trấn Thủ, đều nhỏ con, và đều khoái đấm đá, thầy cô đã can ngăn thế mà hai thằng vẫn hầm hè đòi tiếp tục. 


Xét kỹ thì khả năng đấm đá của Trấn Thủ còn thua Tạo Tiến vài bậc, bù lại Trấn Thủ rất lỳ đòn. Và về sau hắn mới biết, hai thằng này đã gặp nhau nhiều lần ở Phi Lộc, đã từng đấm đá nhau nhiều lần rồi, và không ít lần có đổ máu, nên dù sau này hắn bạn của cả hai, nhưng chúng vẫn không ưa nhau. 


Trấn Thủ là đứa trẻ có nhiều tính cách đặc biệt, đôi lúc như mâu thuẫn. Đám đông nào có Trấn Thủ là vui, nhưng cũng rất thường xuyên, Trấn Thủ là thằng gây ra rắc rối cho đám đông ấy. 


Ngoài ra, Trấn Thủ đặc biệt cả vóc dáng, hắn nhớ nhiều đến tính cách của Trấn Thủ thì cũng nhớ đến vóc dáng của Trấn Thủ nhiều không kém.


Trấn Thủ nhỏ thó, mắt ốc nhồi, lưng ngắn, chân vòng kiềng, đầu to bất xứng với thân thể, đã thế miệng lại rộng và cũng bất xứng với khuôn mặt. 


Trấn thủ chỉ có hai cách cười. 


Thứ nhất là cái cười ha hả, lúc ấy miệng Trấn Thủ rộng gần nửa khuôn mặt, trông vào ai cũng muốn cười theo. 


Thứ hai là cái cười nhếch mép, mép trái giữ nguyên, mép phải xếch lên gần tận mắt, trông đầy vẻ bất cần đời, coi trời bằng vung. 


Hắn chưa thấy Trấn Thủ cười cách khác bao giờ.


Trái ngược với Vui Lâm, Trấn Thủ có nước da rất sáng, nhưng với Trấn Thủ thì đó lại là yếu điểm, vì khi da đen ở dơ chút ít không ai biết, còn da trắng thì ở dơ chút ít lại lòi ra ngay, trong khi Trấn Thủ không chỉ là thằng ở dơ, mà là thằng ở rất dơ. 


Trẻ con đồng quê thường được minh họa bằng những hình ảnh nhem nhuốc, bẩn thỉu, và trẻ con Bình Giã thời ấy là hình ảnh rõ nét nhất, mà trong số đó thì Trấn Thủ là số một. 


Đã thế, Trấn Thủ lại là tạng người thường xuyên đổ mồ hôi. Hắn lúc nào cũng thấy Trấn Thủ trong tình trạng mồ hôi nhể nhại, nên cái dơ dáy bẩn thỉu ấy lại được nhân ba.


Kỳ thực, Trấn Thủ là đứa trẻ trông rất chán. Nguyên nhân căn bản là thói quen dơ dáy đến mức trầm kha.


Trong một lần lên đài đức mẹ tán gẫu, hắn hỏi Trấn Thủ:

- Mi không tắm à?


Trấn Thủ cười nhếch mép, rồi nói :

- Tắm làm đếch chi !

- Mi hôi như cú

- Mi có thơm cứt mô mà nói tau

...


Một kỷ niệm khác của hắn với Trấn Thủ mà hắn nhớ mãi và vẫn không biết lý giải Trấn Thủ khôn hay ngu, gian trá hay thành thật. 


Bình Giã đa số là dân Công Giáo, sinh hoạt tôn giáo rất mạnh. Lũ trẻ phải thực hành nghi thức Xưng Tội rất sớm. Trẻ con thì kiếm đâu ra tội mà xưng? Những trò phá phách nghịch ngợm là những sinh hoạt đáng yêu của tuổi thơ, nếu không có những cái ấy thì còn đâu là tuổi thơ nữa.


Vào mùa phục sinh, tất cả giáo dân Công Giáo đều được nhắc nhở xưng tội, dọn mình, và lũ trẻ con Bình Giã cũng thế. Nên lẽ thường vào mùa ấy các tòa giải tội rất đông, và được phân chia theo giờ, người lớn giờ khác trẻ con giờ khác, và người lớn được sắp xếp ngày giờ ưu tiên, sau đấy mới đến lượt trẻ con.


Vì xảy ra vào cuối ngày nên lúc đó mọi người đều mệt mỏi, cả Linh Mục lẫn con chiên, và cộng với việc con chiên toàn là trẻ con nữa thì tình hình thường rất xô bồ, bát nháo. Linh mục nổi nóng với lũ trẻ thường xuyên xảy ra. 


Hắn vẫn nhớ hình ảnh cha Bá quát tháo lũ trẻ vì ồn ào mất trật tự. Mà cũng nên thông cảm, từ sáng đã phải ngồi tòa giải tội cho người lớn rồi, cuối ngày mệt mỏi lại gặp phải đám trẻ lăng nhăng, đã thế lại toàn xưng những tội vớ vẩn chẳng đâu vào đâu.


Cha Bá người Bắc, người cao lớn, trông hiền lành, có dáng dấp của một kẻ tu hành, kể cả khi mặc thường phục. Cha làm việc rất nghiêm túc, những bài giảng đều được soạn kỹ càng, đúng đề tài, không quá dài mà cũng không quá ngắn. 


Nếu chỉ nghe thì có cảm tưởng cha Bá giảng rất hay, giảng rất tự nhiên, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ thấy cha đang đọc trên giấy, chỉ là đọc như giảng, mặt thì hướng về phía trước như nói trước đám đông, nhưng mắt lại nhìn xuống giấy, cũng là cái mẹo hay đáng học hỏi. 


Hồi ấy, mọi người đều kính nể cha Bá, hắn không nghe điều tiếng gì, mặc dù mọi người đều cho rằng cha Bá quá nóng tính.


Hắn đến nhà thờ thì thấy Trấn Thủ đang quỳ xưng tội. Vẫn biết Trấn Thủ là thằng nghịch ngợm phá phách, nhưng nghịch ngợm phá phách cũng là tội à?


Khi Trấn thủ xưng tội xong đi ra, hắn ra theo và hỏi Trấn Thủ:

- Tau kiếm không ra tội mà xưng, mi xưng tội chi?


Trấn Thủ châm điếu thuốc, rít một hơi dài, lim dim nhả khói chữ O, rồi chậm rãi nói

- Tau xưng tội hút thuốc.

- Hút thuốc mà cũng có tội à ... Mà mi mới xưng tội hút thuốc xong lại hút thuốc nữa ?


Trấn Thủ chẳng chẳng thèm nhìn hắn, rít hơi thuốc thứ hai, lại nhả khói chữ O, rồi nói :

- Thì hút xong vô xưng tiếp !


Hắn trở vào để xưng tội mà trong đầu vẫn còn lởn vởn với cái tội vớ vẩn và cách xưng tội bá đạo của Trấn Thủ.


Rồi khi quỳ trước tòa giải tội, chẳng biết quỷ sứ xui khiến quýnh quáng kiểu gì, hắn xưng : "Thưa cha, con không có tội chi để xưng cả ."


Cha Bá nổi nóng quát:

- Không có tội thì vào đây làm gì? Cút !!!


Hắn cúi đầu lủi nhanh ra ngoài... Ra đến cửa thì vấp phải Trấn Thủ đang đi vào để xưng tội hút thuốc, cái tội mà Trấn Thủ đã xưng trước đó ít phút.


Thời gian trôi qua, những đứa bạn thời thơ ấu của hắn đều thay đổi, tất cả đều khác hẳn tính cách mà chúng đã có xưa kia. Và trong số bạn bè này, Trấn Thủ là người làm hắn suy nghĩ nhiều nhất, dù Trấn Thủ không phải là đứa bạn thân nhất của hắn.


Bình Giã sau 75 thì vốn ai cũng nghèo, riêng nhà Trấn Thủ có vẻ sa sút hơn khi Trấn Thủ vào tuổi trưởng thành. Thế là Trấn Thủ trở thành một nông dân cần cù nhẫn nại, cái hoạt náo lém lỉnh hồn nhiên đã không còn.


Rồi trong một lần đi làm đồng, trú dưới gốc cây trong một cơn mưa, Trấn Thủ bị sét đánh chết !


Hắn đi viếng Trấn Thủ, nhưng nửa đường lại quay về, vì chợt muốn giữ lại hình ảnh một Trấn Thủ náo nhiệt nghịch ngợm phá phách của ngày xưa, hơn là hình ảnh một nạn nhân bị sét đánh.


Trên đường về, lần trò chuyện cuối cùng với Trấn Thủ hiện lên trong tâm trí hắn...


Lúc ấy bọn hắn không còn là trẻ thơ nữa, nhưng chưa hẳn là người trưởng thành, không còn thân như xưa nhưng vẫn thấy gần gũi, Trấn Thủ không còn lôm côm, phá phách, ồn ào, bậm trợn, nhưng bản chất thì vẫn còn phảng phất.


Sau vài câu chào qua loa, Trấn Thủ hỏi:

- Mặt mi răng nhiều mụn rứa?

- Thì tau đang dậy thì mà


Trấn Thủ im lặng, rồi chợt nở nụ cười nhếch mép của ngày xưa, nói :

- Ừ, rứa mi sắp được đụt rồi !


LKG


Nhận xét

  1. Đọc truyện Vui Lâm Và Trấn Thủ của LKG mà cứ ngỡ như đọc chuyện của nhà văn Duyên Anh thuở trước. Truyện ngắn này đã gợi nhớ cho người đọc một quãng trời tuổi thơ với những thú vui bắt dế, thả diều, chơi khăng, chơi vụ, chơi trốn tìm.... và còn đưa người đọc sống lại những kỷ niệm thật đẹp về thôn làng Bình Giả sau năm 1975. Tuy đời sống lúc đó với thật nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng không thiếu những niềm vui mà cuộc đương đại không thể tìm có được.
    Cám ơn LKG nhiều!

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thầy Tôi

Một Lần Ăn Cắp Vặt